Dienstag, 20. November 2012

Văn minh Bắc Trung Quốc được tạo nên không phải bởi người Hán, mà là người Âu


Lời bình của theviewingplatform: lần kế tiếp logic và nhân chủng học lại giúp chúng ta giải thích tại sao một dân tộc "vĩ đại", đang lâm le trở thành siêu cường №1, như người Trung Quốc hiện đại, bị đồng hóa bởi người Hán mongoloid, lại vẫn chỉ có thể kiếm sống bằng nghề buôn đồng nát và trà đạp quyền tự do lựa chọn của con người. Bởi, hoá ra, kỳ quan thế giới Vạn Lý Trường Thành trông thấy được từ cung Trăng, cũng như các Kim Tự Tháp ở Trung Quốc không phải do người Hán xây nên, mà là người Âu, những người đặt tên "China" chỉ cho Bắc Trung Quốc, chứ không phải toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc hiện đại.

Văn minh Bắc Trung Quốc được tạo nên không phải bởi người Hán, mà là người Âu


Tác giả: Andrey Aleksandrovich Chiunhiaiev, chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học cơ bản, viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Nga


Người dịch: theviewingplatform


Thời gian gần đây xuất hiện đặc biệt càng nhiều những tranh luận xung quanh việc làm sao thổ dân những làng Trung Quốc thâm căn cố đế lại có thể là những người tóc vàng và mắt xanh. Một loạt những người dân đó được làm thử nghiệm gene. Theo tờ «The Daily Telegraph», những thử nghiệm đã xác nhận nguồn gốc châu Âu của 56% số họ. Trên cơ sở này, các nhà bác học phương Tây đã rút ra kết luận rằng gần hai phần ba nông dân Trung Quốc, có thể, là con cháu của lính La Mã cổ. Chúng ta thử kiểm tra xem có phải sự thật là như thế, và điều đó nói chung có thể ở Trung Quốc hay không.




Ví dụ, nông dân Trung Quốc sống ở làng Liqian thuộc miền Tây – Bắc Trung Quốc, ráp sa mạc Gobi, cách lòng chảo Tarim về phía Đông, có tóc màu hoàn toàn sáng. Mắt nhiều người dân làng này có màu xanh ra trời hoặc lá cây, mũi dài và thậm chí tóc màu bạch kim. Các nhà nghiên cứu phương Tây ngay lập tức gán cho hiện tượng này nhãn hiệu: “có vẻ bề ngoài khác thổ dân Trung Quốc”.


Hai bộ phận cấu thành của Trung Quốc hiện đại


Nền văn minh Trung Quốc luôn bao hàm những sự tích về những người mắt xanh tóc vàng đã khai sáng ra đạo Phật, cũng như những thủ lĩnh và nhà tổ chức đầu tiên của xã hội Trung Quốc. Chứng cớ lịch sử này được nói rõ trong bài báo chuyên đề về Trung Quốc trong Từ điển Bách khoa Liên Xô toàn tập.


Duman L.I, chuyên gia về lịch sử Trung Quốc, bắt đầu bài nghiên cứu bằng những lời: “Trên lãnh thổ Bắc Trung Quốc, nơi khai sinh nền văn minh Trung Quốc...”. Cũng trong bài báo đó, nhà nhân chủng học nổi tiếng Bruk S.I. giải thích rõ là sống tại miền Tây – Bắc Trung Quốc là các dân tộc nhóm ngôn ngữ
Turkic: người Uyghur, người Kazakhs, người Kyrgyz ... Ở miền Bắc và Đông – Bắc Trung Quốc là các dân tộc nhóm Mông Cổ: người Mông Cổ, người Đông Hương (Dongxiang)... Ở miền Đông – Bắc là các dân tộc nhóm Tungusic: người Mãn và các dân tộc khác”.

Vẫn tác giả Bruk S.I. đó cho biết là thổ dân Trung Quốc truyền thống sống ở nửa miền Đông đất nước, và chiếm một lãnh thổ rộng lớn ở phía Nam – đó là các dân tộc nói bằng các ngôn ngữ nhóm Thái: người Tráng, người Bui, người Động và các dân tộc khác, cũng như các dân tộc nhóm H’Mông – Miền: H’Mông (Mèo), Dao, She, v.v.


Ở miền Tây – Nam Trung Quốc là các dân tộc nhóm gia đình ngôn ngữ Mông-Khmer. Chính vì vậy mà Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc mới trải dài từ Bắc Trung Quốc xuống miền Nam. Những lỗ châu mai trên tường nhằm về phía Nam. Bức tường này hàng thế kỷ bảo vệ các dân tộc châu Âu văn minh phương Bắc của “Trung Quốc” khỏi sự xâm lược của người Trung Quốc chủng tộc mongoloid từ phương Nam.


Người Trung Quốc hiện đại là sản phẩm của sự pha trộn. Một mặt, đó là người thuộc chủng tộc mongoloid hình thành ở miền Đông – Nam. Mặt khác, đó là những người châu Âu mang văn minh đến cho khu vực.

Thoạt tiên chúng ta hãy chú ý đến tên gọi “Trung Quốc”. Ở thế XIII, những lãnh thổ mà ngày nay thuộc miền Bắc Trung Quốc từng được Marc O’Polo gọi là “Catai”, còn những thổ dân phương Nam gốc mongoloid – được ông gọi là “Manji”, có nghĩa “bọn man ri mọi rợ phương Nam”. Trong từ điển danh từ này chỉ “các bộ lạc không phải Trung Quốc ở miền Nam Trung Quốc”. Lịch sử hình thành nhân chủng “Manji” (thế kỷ XI đến thế kỷ III trước Công nguyên) gắn liền với các dân tộc Mèo và Dao sống ở miền Nam Trung Quốc. Nhà lữ hành Nga Aphanasi Nhikitin trong cuốn “Hành trình qua ba bể” (những năm 1470) của mình cũng có hai tên gọi khác nhau: ông gọi miền Nam Trung Quốc là “China” , miền Bắc Trung Quốc là “Kita(i)”. M. Phasmer trong từ điển của mình cũng đề rõ rằng từ “Kитай” trong tiếng Nga cổ, “Kytai” trong tiếng Tatar, Uyghur... chỉ “Trung Quốc”, “người Trung Quốc”, còn “Xytai” trong tiếng Turkic thì chỉ có nghĩa là “Bắc Trung Quốc”.

“Trong thung lũng tỉnh Cam Túc (nơi có làng Liqian mà chúng ta nói tới ở trên), cách thành phố chính Liang Chou Fu về phía Tây, bạn có thể bắt gặp cả một bộ lạc đông đến chừng cả chục ngàn người để râu dài, da trắng, hông cao, nói bằng thứ tiếng Turkic cổ”, - Lezhanr, nhà lữ hành thế kỷ XIX kể. Hơn thế nữa, các bộ tộc tương tự thực ra có rất nhiều ở Turkistan của Trung Quốc. Những chủng tộc da trắng, cổ đại và hiện đại, thuần chủng và pha trộn, vẫn còn nhiều ở châu Á từng là sở hữu của họ khi nào đó, trước khi họ bị các bộ lạc mongoloid đồng hóa [
Arnoldov, 2009].

Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng cách gọi đơn giản “người Trung Quốc” chỉ để gọi các dân tộc được Marc O’Polo gọi là “Manji” (thế kỷ XI – III trước Công nguyên) mà việc hình thành nhân chủng của họ liên quan tới dân tộc Mèo từng được nhắc tới. Đây là dân tộc cổ đại không có chữ viết ở Đông Nam Á và chỉ biết tới từ thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên. [
Các dân tộc, 1965, 1966].

Người Mèo sống ở Nam Trung Quốc (Hồ Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam) và bao hàm năm nhóm riêng. Mỗi nhóm có tên tự gọi của minh: gusu, mu, mông, amoi, game. Người Mèo như dân tộc thiểu số sống tại các nước Đông Nam Á (Việt Nam, Thái Lan, Miến), nơi họ được gọi là Mèo. Địa điểm xuất xứ của họ là tỉnh Quý Châu. Người Dao sống ở các tỉnh của Trung Quốc, như Quảng Đông, Hồ Nam, v.v., ở Việt Nam, ở Lào cà các nước khác. Tên tự gọi của người Dao là Minh và Manh [
Lịch sử, 1972].

Như vậy, về mặt lịch sử, thì người Âu từng đến chinh phục miền Bắc Trung Quốc, nơi họ xây dựng nên nền văn minh và gọi nó là “Kitai” (đúng nghĩa là Con Rắn); ở phía ranh giới phía Nam nền văn minh này người Âu đã xây nên Vạn Lý Trường Thành để bảo vệ họ khỏi sự xâm nhập từ phía Nam đại diện các chủng tộc mongoloid – các dân tộc Mã Lai, Mèo, Dao, những dân tộc xa lạ với văn minh, song đến thời hiện đại ngày nay đã nuốt chửng toàn bộ Đông Nam Á.


Sự xuất hiện người Âu ở Trung Quốc


Tác giả
: Andrey Aleksandrovich Chiunhiaiev, chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học cơ bản, viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Nga
Người dịch và chú giải
: theviewingplatform

Huyền thoại cổ Trung Quốc kể rằng nền văn minh Trung Quốc bắt đầu từ khi vị thánh có tên là Hoàng Đế (nghĩa là vua thứ Hai) cưỡi xe nhà trời xuống mặt đất và dạy loài người sống ở đó cách làm mọi thứ - từ trồng lúa ngoài đồng, xây đập chắn nước trên sông, cho tới chữ viết.


Chữ viết mà người Trung Quốc hiện đại đang sử dụng là thừa kế từ đại diện của nền văn minh phát triển cao nằm ở phía Bắc Trung Quốc cổ đại. Thời điểm xuất hiện của vị vua thứ Hai là thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Sự kiện này gắn liền với điều gì? Với điều là chính vào thời điểm này Tây – Bắc Trung Quốc (nơi về mặt lịch sử lúc đó không hề có người Hán sống truyền thống ở Đông – Nam Trung Quốc, chú giải của người dịch) bắt đầu mở cửa cho ngoại thương, và các lái buôn từ khắp thế giới đổ xô đến đó.


Tuy nhiên, những tuyến giao thương nối
Turkestan với nước Nga cổ và châu Âu đã tồn tại ngay từ kỷ Neolithic. Ở đây chúng tôi sẽ không miêu tả chi tiết, mà chỉ đơn giản liệt kê lại những tuyến giao thương này ( mà về chúng chúng tôi đã nói rõ trong báo cáo “Những tuyến giao lưu thương mại trên đất Nga (theo những tài liệu tổng hợp từ khảo cổ học, nhân chủng học, gene và thần thoại học)” mà tôi thực hiện vào tháng Chạp năm 2010 tại hội thảo dân tộc học St. Peterburg lần thứ IX “Nền kinh tế truyền thống trong hệ thống văn hóa dân tộc” tại viện bảo tàng dân tộc học Nga ở St. Peterburg).

Con đường thương mại đầu tiên nhất là con đường “đồng” hình thành vào kỷ Neolithic. Ngay vào thiên niên kỷ thứ VI trước Công nguyên nó đã nối kết những vùng giàu quặng đồng tự nhiên ở miền Trung Nga với các bộ lạc Nam Nga thuộc văn hóa
Sredny Stog và với khu dân cư Tây – Nam trên lãnh thổ Serbia ngày nay (thuộc văn hóa Vinča culture).

Ở phương Nam, đến thiên niên kỷ thứ IV trước Công nguyên, nghệ thuật nấu đồng đã tràn đến tận
Mesopotamia, nơi kim loại này được chuyển đến từ Iran. Ở phương Đông, trong cuộc chạy đua săn lùng đồng, các nhà nấu thép Nga cổ đã vượt qua Ural ( văn hóa Sintashta, Arkaim) và đến những vùng Altai giàu quặng (trước khi đổ bộ vào lòng chảo Tarim ở Trung Quốc).

Từ thiên niên kỷ thứ V trước Công nguyên, việc buôn đồng cũng diễn ra theo chính hành trình này: từ Altai, nếu đi lên theo phía Bắc, thì bạc được đưa về Nga, sang châu Âu, còn đi xuống theo phía Nam, thì đến
Sumer.

Từ thiên niên kỷ thứ IV trước Công nguyên người ta bắt đầu buôn
thạch đá lazurite: đá này nếu theo con đường lên phía Bắc, thì được chở về Nga, châu Âu và qua Caucasus đến Ai Cập cố đại, còn nếu xuống phương Nam, thì đến Sumer. Từ thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên, cũng theo chính những hành trình này đã diễn ra con đường hổ phách, cũng như việc buôn bán một số vật liệu khác.

Như vậy, từ lòng chảo Tarim về phía Tây (Tây – Bắc Trung Quốc), từ các thiên niên kỷ IV-III trước Công nguyên, đã hình thành một nền văn minh châu Âu hùng mạnh bậc nhất mà theo thần thoại học hoàng đế của nó là con trai của
Dažbog, cháu của Perun, chắt của Svarog - Bogumir ( hay gọi theo cách khác là Jamshid). Từ thiên niên kỷ II trước Công nguyên từ Altai và Badakhshan qua lòng chảo Tarim người ta bắt đầu chuyển Nephrite đến Bắc Trung Quốc, còn đến thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên thì là lụa tơ tằm. Làng Liqian, cũng như toàn bộ Bắc Trung Quốc, trở thành những trung tâm chế biến nephrite và tơ lụa. Nền văn minh bao gồm chỉ có người châu Âu này, hậu thế của Bogumir, đã trở thành nền tảng của Trung Quốc đương đại.

Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng những con đường buôn thời cổ đại đã không đi đến cái gọi là “những nền văn minh cổ đại” của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Người Hy Lạp biết tới con đường Tơ Lụa chỉ vào thế kỷ thứ II trước Công nguyên, còn người La Mã thì còn muộn hơn nữa. Trước đó tơ lụa được đưa đến Rome và Hy Lạp từ phía Bắc – qua Caucasus và Nga cổ đại. Vì thế, nếu giữa các làng người Âu tóc vàng mắt xanh ở Bắc Trung Quốc và con đường Tơ Lụa có mối quan hệ giàng buộc, song với La Mã cổ, như nhà lãnh đạo của Trung tâm nghiên cứu Italy mới được thành lập cách đây không lâu tại trường đại học tổng hợp
Lanzhou University (tỉnh Cam Túc) đang làm - thì không thể có cơ sở nào.


Cứ liệu về gene của những người Âu “Trung Quốc”


Để làm sáng tỏ đến cùng việc thổ dân các làng Bắc Trung Quốc là người Âu hay người La Mã, công cụ tốt nhất có thể giúp chúng ta là di truyền học. Người Italy (con cháu người La Mã) không đồng nhất về thành phần gene của mình. Nếu ở người Nam Italy với bộ nhiễm sắc thể (NST) đơn bội
R1b1 chỉ có ở 36% dân số, nhóm NST đơn bội G là 10%, nhóm NST E – 11,5% và ở người Trung Italy cũng tương tự - R1b1 – 36%, G – 10%, thì ở người Bắc Italy các nhóm NST R1b – 62%, I – 0,5%, E – 10,4%, J – 9,6%, G – 10%, còn số phần trăm của nhóm NST R1a1 nếu là điển hình với người Nga, thì chỉ chiếm vẻn vẹn 2,7% trong số người Bắc Italy kể trên. Người có quỹ gene tương tự người Italy là các dân tộc láng giềng của họ và người Bắc Pháp. Các nhóm NST đơn bội ở các dân tộc này có chỉ số R1a1 – 0%; R1b – 52,2%, I – 17,4%, E – 4,7%. Trong khi đó, vùng bao phủ của các nhóm NST đơn bội ở người Nga hoàn toàn khác: R1a1 – 61%, I – 21%, R1b – 15%. Như vậy, nếu nhóm NST đơn bội chủ đạo ở người Italy, con cháu người La Mã cổ đại, là R1b, thì ở người Nga là R1a1.

Ở khắp mọi nơi diễn ra con đường thương mại phương Bắc: Bắc Kazakhstan, Nam Ural, Kirghizia, vùng Krasnoyarsky..., những hài cốt được tìm thấy đều thuộc nhóm NST đơn bội R1a1 [Bouakaze et al, 2007; Keyser et al, 2009]. Chừng 1,6 nghìn năm trước Công nguyên, chủ nhân của nhóm NST R1a1 di cư từ Nam Ural (văn hóa cổ vật học Sintashta, Arkaim) đến Bắc Ấn Độ, sáng lập ra chế độ đẳng cấp và nắm giữ các đẳng cấp cao nhất (đến 72% là người mang nhóm NST R1a1)[
Sharma et al, 2009]. Con đường thương mại phương Bắc kể trên được xây dựng nên bởi những bộ lạc Nga cổ, những người sở hữu nhóm NST R1a1đào thấy được: họ là những đại diện văn hóa Andronovo (1,8 – 1,4 nghìn năm trước Công nguyên), văn hóa Karasuk (2,8 – 1,9 nghìn năm trước Công nguyên), văn hóa Tagar (1,9 – 1,5 nghìn năm trước Công nguyên), văn hóa Tashtyk (1 – 4 thế kỷ sau Công nguyên).

Trong công trình nghiên cứu Roewer et al., 2008; Keyser, 2009] có giới thiệu một đoạn thú vị từ gia-hệ- trình-tự-17-chỉ-thị của các
mẫu-gene-đơn-bội nhóm-đơn-bội R1а1của người Nga từ mười hai tỉnh Liên bang Nga. Theo nghiên cứu này, các mẫu-gene-đơn-bội R1a1tìm thấy ở Nam Siberia trùng hợp kỳ diệu với các nhánh gene của người Nga hiện đại. Các mẫu-gene-đơn-bội này có cùng một tổ tiên với người Nga ngày nay. Tư liệu về gene này, thứ nhất, xác nhận sự tồn tại của cộng đồng Nga cổ từ 4 đến 2 nghìn năm trước Công nguyên, cũng như minh họa việc di chuyển của người họ trên lãnh thổ Nam Siberia, Ấn Độ, Bắc Trung Quốc... Cụ thể là về mặt gene, thì người mang văn hóa Androno là người tỉnh Tverskaya, còn người mang văn hóa Tagar và Tashtyk là người các tỉnh Tverskaya và Ivanovo.

Phổ biến trong các thiên niên kỷ 3 – 2 trước Công nguyên ở vùng Nam Siberia và thung lũng lòng chảo Minusinsk là nền văn hóa Afanasevo (họ hàng với nền văn hóa Androno). Nó được tạo nên bởi những bộ lạc người Âu chuyên sống bằng nghề nông và chăn nuôi gia cầm – con cháu của nhân vật thần thoại Bogumir đến từ lãnh thổ đồng bằng Nga. Họ mang đến theo mình nghề chăn nuôi gia súc, trồng trọt và luyện kim, là những người đầu tiên chôn người chết trong các gò mộ. Khu vực phổ cập nền văn hóa Afanasevo bao gồm Altai, Đông Kazakhstan, Mông Cổ và Tân Cương. Niên biểu của các công trình văn hóa Afanasevo với các đồ bằng vàng vùng thung lũng sông Karakol nói lên nhiều điều. Nghề khai thác vàng ở vùng này bắt đầu đạt được những kết quả đáng kể chính vào thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên. Điều này cho phép dập tiền vàng ở Trung Quốc cổ đại [
Borodovsky, 2003].

Người mang văn hóa
Karasuk (R1a1) có mối giàng buộc với dân cư Bắc Trung Quốc, Mông Cổ, Zabaikal, Pribaikal, Tây Siberia, Trung Á [Novgorodova, 1970]. Nói cụ thể hơn là người mang văn hóa Karasuk từng xuất khẩu dao vào Trung Quốc, nơi vào thời nha Chu (1027 – 256 trước Công nguyên), tiền xu hình con dao phổ biến rộng rãi [Bảo tàng Khakassia, 2010]. Còn giữ được bức tượng vua Trụ Vương đời nhà Thương (trị vì vào những năm 1154 – 1122 trước Công nguyên; bức tượng cũng thuộc thời gian đó), có vẻ bề ngoài, như chúng ta thấy, là của người Âu, chứ không phải mongoloid.

Người mang văn hóa
Tagar (R1a1) là người kế tục văn hóa Afanasevo (tồn tại đến thế kỷ III trước Công nguyên) – Tocharians, những người, như được viết trong bất kỳ từ điển bách khoa toàn thư nào, là thổ dân Đông Âu (có nghĩa là Nga) và dần dần chinh phục Tân Cương của Trung Quốc (về phía Tây cách làng Liqian khiến chúng ta quan tâm). Ở đây, trong lưu vực sông Tarim, người ta tìm thấy gần 200 hài cốt của họ được chôn vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Khi nghiên cứu chúng, các nhà khảo cổ học Mỹ và Trung Quốc đều nhận định rằng những người được chôn không có gì chung với cả người Trung Quốc lẫn người Tibet hiện đại, mà mang dấu tích của những người có hình thức bề ngoài không thuộc chủng tộc mongoloid. Tất cả các xác chết được lưu giữ tốt và biến thành các xác ướp.

Các xác ướp người đó mang đặc điểm châu Âu: tầm vóc cao, tóc hạt rẻ sáng, mũi dài. Đó là tổ tiên của những người mà bây giờ nhiều người muốn gọi là người La Mã. Song tuổi của những người “La Mã mất tích” này là bốn nghìn năm, có nghĩa họ đã sống 2,5 nghìn năm trước khi có “La Mã Vĩ Đại”.


Và điều cuối cùng: ở tất cả đàn ông vùng lòng chảo Tarim mà thể nhiếm sắc Y của họ được xét nghiệm kỹ lưỡng, đều tìm thấy vẫn nhóm NST đơn bội R1a1 – thuộc tính đối với những người Tocharians, Karsuk, Tashtyk, Andronovo, Afanasevo và nhóm mà trong thuật ngữ khoa học được gọi là Nga [
Kliosov và Chiunhiaev, 2010]. Có tất cả cơ sở rằng nhóm NST đơn bội R1a1 được tìm thấy cả dân làng Liqia. Nhóm NST Nga, chứ không phải La Mã (R1b).


Những cứ liệu nhân chủng học

Để khẳng định giả thuyết của mình về sự có mặt của người La Mã ở Bắc Trung Quốc, các nhà bác học phương Tây đưa ra những cứ liệu về chiều cao của những cư dân châu Âu trên lãnh thổ Trung Quốc là 180 cm. Và tuồng như cho rằng đó là chiều cao La Mã điển hình. Trong khi đó, các cứ liệu nhân chủng học về binh lính La Mã lại cho chúng ta biết rằng họ rất thấp về chiều cao ( chỉ chừng 150 – 160 cm), tay ngắn, chân ngắn. Ví dụ, tượng
Mars of Todi, được thực hiện theo đúng luật thời đó, tức là theo đúng tầm vóc có thật, là một người đàn ông có chiều cao vẻn vẹn 140 cm (đầu thế kỷ IV trước Công nguyên, Rome, Bảo tàng Vatican).

Ngoài bằng chứng đó, còn có các chương trình khôi phục cứ liệu về chiều cao của con người qua bàn chân hay bước chân được áp dụng trong điều tra hình sự (hình pháp học). Chúng ta thử phân tích: đơn vị chiều dài La Mã cố
foot tương đương 25 cm (theo một số tài liệu khác, trong đó có Wikipedia, thì là 29,6 cm, chú giải của người dịch). Chiều dài như thế của bàn chân tương ứng hệ số 6,31[Chulakhov và nhiều tác giả khác, 2008], điều cho chúng ta biết là chiều cao của người La Mã là 157,75 cm. Trong hình pháp học cũng được áp dụng công thức: chiều cao (bằng mét) = 4 (độ dài của bước chân đo bằng mét – 3,37 mét [Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô]. Theo công thức này, thì chiều cao của người lính La Mã là 1,48 cm.

Ngoài ra, có thể xem rất nhiều các tái hiện chiến tranh mà trong đó người La Mã luôn thấp hơn đến cả 1/3 các đối thủ phương Bắc, những người có chiều cao trung bình là 180 cm, cũng như rất hay thường gặp những người cao hơn 2 mét. Chúng ta thử sử dụng những cứ liệu tương tự về độ dài một dặm Nga cổ. Nó tương đương 7467,60 mét [Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô]. Như vậy, chiều dài của một bước chân Nga là 0,93345 mét, còn chiều cao người lính Nga là 2 mét 25 cm (có nghĩa người Nga cao hơn người La Mã tới 52%). Chỉ cần bổ sung thêm vào đây là chiều dài các bộ xương tìm thấy được ở Nga trong tuyệt đại đa số các trường hợp đều nằm giữa 180 – 200 cm, ví dụ, người cổ đại
Sun-ghir (24 nghìn năm trước Công nghuyên, thành phố Vladimir).

Kết luận


Như vậy, nền văn minh Bắc Trung Quốc được tạo nên bởi đại diện của chủng tộc châu Âu, những người có chỉ định gene giống người Nga hiện đại đang sống tại các tỉnh Tverskaya và Ivanovskaya. Về mặt nhân chủng học, những người này là con cháu của những người Nga cổ - của vua Bogumir thần thoại, những người ở Trung Quốc được gọi là
Tocharians. Và cuốn sách được xuất bản vào cuối năm 2011 của tôi “Một nước Trung Hoa từng của người Nga (xuất khẩu văn minh)” sẽ nói về chính vấn đề này.

Andrey Aleksandrovich Chiunhiaev, chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học cơ bản, viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Nga


Người dịch và chú giải: theviewingplatform


Bản dịch tiếp là “Vạn Lý Trường Thành được xây nên không phải bởi người Hán, mà là người Âu”




Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen