Samstag, 10. November 2012

Đường về nô lệ [IV]


Friedrich A. von Hayek
Phạm Minh Ngọc dịch

Kế hoạch hoá có làm chúng ta bớt lo không?

Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hoá, từng xem xét một cách nghiêm túc khía cạnh thực tiễn của nhiệm vụ, không hề nghi ngờ gì rằng nền kinh tế được quản lí (tập trung - ND) nhất định phải vận hành theo phương pháp độc tài, rằng hệ thống phức tạp của các hoạt động liên kết chằng chịt với nhau phải nằm dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia, viên tổng tư lệnh phải có quyền lực tuyệt đối, hành động của ông ta không thể bị giới hạn bởi các thủ tục dân chủ. May là họ còn an ủi chúng ta rằng việc quản lí độc tài như thế “chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi. Lời bảo đảm đó thường đi kèm với ám chỉ rằng bằng cách từ bỏ tự do trong những lĩnh vực không quan trọng, chúng ta sẽ được tự do theo đuổi những giá trị cao cả hơn. Trên cơ sở đó, những người vốn ghét cay ghét đắng độc tài chính trị lại thường lên tiếng đòi hỏi độc tài trong lĩnh vực kinh tế.

Các lí lẽ được sử dụng nhắm vào những bản năng cao quí nhất của chúng ta. Nếu kế hoạch hoá thực sự làm cho chúng ta không còn phải bận tâm với những lo lắng vụn vặt, làm cho đời sống vật chất của chúng ta trở thành đơn giản nhưng chúng ta lại có một đời sống tinh thần cao thì ai nỡ coi thường lí tưởng như thế?

Đáng tiếc là mục đích kinh tế không bao giờ tách rời khỏi các mục đích khác của đời sống. Cái trong ngôn ngữ bình thường mà ta vẫn gọi một cách sai lầm là “động cơ kinh tế” chỉ có nghĩa là ước muốn giành lấy những cơ hội tiềm tàng, giành lấy những điều kiện cho những mục tiêu khác mà thôi. Chúng ta muốn kiếm tiền là vì tiền cho chúng ta quyền được lựa chọn trong việc thụ hưởng thành quả lao động của mình – tiền ta ta cứ tiêu.

Vì thu nhập có hạn nên chúng ta cảm thấy những hạn chế do sự nghèo khó tương đối đè trên vai mình và nhiều người sinh ra căm thù tiền bạc, coi tiền là biểu tượng của sự hạn chế. Trên thực tế, tiền là công cụ vĩ đại nhất của tự do mà con người từng phát minh. Trong xã hội hiện nay chính tiền đã mở ra cho người nghèo những khả năng lựa chọn to lớn, mà trước đây vài thế kỉ ngay cả người giầu cũng không có.

Để hiểu được giá trị thật sự của đồng tiền phải tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trên thực tế, nếu, như những người xã hội chủ nghĩa đề nghị: dùng “khuyến khích phi kinh tế” thay cho “động cơ kinh tế”. Nếu mọi phần thưởng, thay vì được trao bằng tiền lại được trao bằng danh hiệu, đặc lợi hay quyền lực, nhà ở hay lương thực thực phẩm tốt hơn, quyền được đi du lịch hay đi học thì điều đó có nghĩa là người nhận không có quyền lựa chọn và bất cứ người quyết định thưởng nào cũng có quyền xác định không chỉ số lượng mà cả cách thức hưởng thụ phần thưởng đó.

Cái gọi là tự do kinh tế mà những người ủng hộ kế hoạch hoá hứa hẹn, chỉ có nghĩa là chúng ta không còn phải tự giải quyết các vấn đề kinh tế của mình nữa và những lựa chọn khó khăn đi kèm với nó đã được những người khác làm hộ cho chúng ta. Trong thời đại ngày nay chúng ta gần như phụ thuộc hoàn toàn vào những phương tiện do người khác sản xuất ra cho nên kế hoạch hoá kinh tế sẽ kéo theo sự quản lí gần như toàn bộ đời sống của chúng ta. Khó có lĩnh vực nào, từ những nhu cầu sơ đẳng cho đến quan hệ của chúng ta với bạn bè, người thân, từ việc làm cho đến cách nghỉ ngơi của chúng ta thoát khỏi được “sự kiểm soát có ý thức” của những lập kế hoạch.

Quyền lực của các cơ quan lập kế hoạch đối với đời sống riêng tư của chúng ta sẽ không hề giảm ngay cả khi người tiêu dùng, trên danh nghĩa, được tự do sử dụng thu nhập của mình vì chính quyền vẫn kiểm soát sản xuất.

Quyền tự do lựa chọn trong xã hội cạnh tranh dựa trên sự kiện là nếu một người nào đó không chịu đáp ứng nhu cầu của chúng ta thì chúng ta có thể quay sang người khác. Nhưng đứng trước một nhà sản xuất độc quyền thì chúng ta chỉ còn hi vọng vào lòng tốt của ông ta mà thôi. Và như thế, khi nhà chức trách quản lí toàn bộ nền kinh tế sẽ trở thành một người độc quyền lớn nhất mà ta có thể tưởng tượng được.

Cơ quan này sẽ có toàn quyền quyết định ta được nhận cái gì và với điều kiện nào. Cơ quan này không chỉ quyết định loại hàng hoá và dịch vụ được cung cấp mà còn cả số lượng của chúng nữa; nó có thể quản lí cả việc phân phối giữa các địa phương và nhóm xã hội và nếu muốn, nó có thể thực hiện chính sách phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện nhất. Không phải quan điểm của chúng ta mà quan điểm của một người nào đó về việc ta phải thích hay không thích cái gì sẽ quyết định ta được nhận cái gì.

Nếu là người sản xuất, chúng ta còn bị nhà chức trách nhào nặn và “hướng dẫn” kĩ lưỡng hơn nữa. Đa số chúng ta sử dụng phần thời gian trong cuộc đời để làm việc và công việc của chúng ta thường quyết định nơi cư trú và những người xung quanh ta. Do đó, đối với hạnh phúc của chúng ta, tự do lựa chọn công việc có thể còn quan trọng hơn cả quyền tự do sử dụng thu nhập trong thời gian rảnh rỗi.

Ngay cả trong những thế giới tốt đẹp nhất, quyền tự do này vẫn có giới hạn. Chỉ một ít người có thể tự coi là thực sự có tự do trong việc lựa chọn công việc. Nhưng vấn đề là chúng ta có thể lựa chọn, vấn đề là chúng ta không bị trói chặt vào công việc đã được người khác lựa chọn cho ta và nếu ta không thể chịu đựng được công việc đó nữa, hoặc nếu ta thích công việc khác thì những người có khả năng vẫn có thể, với một cái giá phải trả nào đó, tìm được công việc thích hợp hơn. Không có gì đau khổ hơn là nhận thức được rằng dù cố gắng đến đâu chúng ta cũng không thể thay đổi được điều kiện sống của mình. Làm một bánh răng trong một cỗ máy đã là khổ, nhưng còn khổ hơn bội phần nếu ta không thể bỏ đi, nếu ta bị cột chặt vào một chỗ, cột chặt vào những người lãnh đạo do người khác lựa chọn cho ta.

Trong thế giới ngày nay, còn phải làm nhiều nữa thì mới mong cải thiện được cơ hội lựa chọn của người dân. Nhưng “kế hoạch hoá” chắc chắn sẽ đi theo hướng ngược lại. Kế hoạch phải kiểm soát số người gia nhập vào những ngành nghề khác nhau hay kiểm soát mức lương hoặc kiểm soát cả hai. Việc kiểm soát và hạn chế như thế thường là những biện pháp được thi hành đầu tiên trong hầu như tất cả các trường hợp kế hoạch hoá mà ta đã biết.

Trong xã hội cạnh tranh có thể mua được mọi thứ. Đôi khi với giá cực kì cao. Muốn được cái này thì phải hi sinh cái kia. Nhưng cái mà người ta đưa ra không phải là tự do lựa chọn mà là mệnh lệnh và cấm đoán mà ta nhất định phải tuân theo.

Việc người ta muốn giải thoát khỏi những sự lựa chọn đầy đau đớn mà hoàn cảnh khó khăn đặt lên vai họ là điều dễ hiểu. Nhưng ít người muốn người khác lựa chọn hộ. Họ chỉ muốn không cần phải lựa chọn gì hết mà thôi. Và vì thế mọi người đều sẵn sàng tin rằng lựa chọn không phải là vấn đề tất yếu, chúng ta phải lựa chọn là vì hệ thống kinh tế buộc chúng ta phải làm như thế. Sự thật là, chính các vấn đề kinh tế đã làm cho người dân phẫn nộ.

Nhưng người ta lại thích bị lừa rằng vấn đề kinh tế không tồn tại trên thực tế. Họ còn tiếp tục bị lừa thêm bởi lời khẳng định rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn hệ thống cạnh tranh. Lời khẳng định này đang càng ngày càng bị nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ. Hiện nay ngay cả những nhà kinh tế học theo xu hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ còn hi vọng rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ có hiệu quả ngang với hệ thống cạnh tranh mà thôi. Họ tiếp tục bảo vệ kế hoạch hoá vì hệ thống này sẽ bảo đảm việc phân phối sản phẩm một cách công bằng hơn. Nếu chúng ta muốn quyết định một cách có ý thức ai được nhận cái gì thì chúng ta buộc phải lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế, đấy là vấn đề không cần tranh cãi.

Vấn đề chỉ còn là liệu cái giá mà ta phải trả cho việc thực hiện lí tưởng của ai đó về sự công bằng có phải là sự bất bình và áp bức sẽ khủng khiếp hơn cả thời “các lực lượng kinh tế được chơi một cách tự do” - vốn đang bị phê phán dữ dội - hay không mà thôi.

Chính phủ sẽ thực hiện việc phân phối sản phẩm theo nguyên tắc nào? Có một câu hỏi chung cuộc cho biết bao nhiêu vấn đề sẽ xuất hiện hay không?

Chỉ có một nguyên tắc chung, nguyên tắc đơn giản này sẽ đưa ra câu trả lời: sự bình đẳng tuyệt đối cho tất cả mọi người. Nếu đấy là mục đích thì ít nhất nó cũng làm cho ý tưởng mù mờ về phân phối công bằng có một nội dung rõ ràng. Nhưng vấn đề là dân chúng đâu có muốn một sự công bằng cơ học như thế, còn chủ nghĩa xã hội thì không hứa công bằng tuyệt đối mà chỉ hứa “công bằng hơn” mà thôi.

Trên thực tế, công thức này chẳng giải đáp được bất kì câu hỏi nào. Công thức đó chẳng giúp được gì, chúng ta vẫn phải quyết định, trong từng trường hợp cụ thể, mức độ cống hiến của từng người hoặc từng nhóm khác nhau. Điều duy nhất nó có thể nói được: đấy là lấy của người giầu, càng nhiều càng tốt. Nhưng khi phải chia “quả thực” thì vấn đề lại xuất hiện, cứ như thể chưa ai biết công thức “công bằng hơn” nghĩa là thế nào vậy.

Người ta thường nói không có tự do kinh tế thì tự do chính trị cũng chẳng có giá trị gì. Đúng như thế, nhưng theo nghĩa ngược lại với mệnh đề mà những người ủng hộ kế hoạch hoá thường nói. Tự do kinh tế - vốn là tiền đề cho mọi quyền tự do khác - không phải là tự do khỏi những lo lắng về kinh tế mà những người xã hội chủ nghĩa hứa hẹn với chúng ta, nhưng họ lại thường quên nói rằng họ cũng giải phóng chúng ta khỏi quyền lựa chọn nữa. Tự do kinh tế là tự do hoạt động kinh tế, và cùng với quyền lựa là trách nhiệm và rủi ro.

Hai kiểu an toàn

Giống như cái “tự do kinh tế” giả mạo đã nói đến bên trên, sự an toàn về kinh tế cũng thường được coi là điều kiện tối cần để đạt được tự do thực sự. Theo một nghĩa nào đó thì điều đó vừa đúng vừa quan trọng nữa. Những người không tự tin rằng họ có thể tự nuôi sống được mình thường không có tư duy độc lập và không có cá tính mạnh.

Nhưng thực ra an toàn cũng có hai loại. Loại an toàn thứ nhất là tin chắc rằng mọi người đều được nhận những thứ tối cần thiết để tồn tại; loại an toàn thứ hai là sự bảo đảm cho một lối sống, một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác.

Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất, nghĩa là bảo đảm cho mọi người một lượng thức ăn tối thiểu, nhà ở và quần áo để bảo đảm sức khỏe. Không có lí do gì mà chính phủ lại không giúp tổ chức một hệ thống an sinh xã hội rộng khắp nhằm trợ giúp cho những người gặp hoạn nạn mà ít người có thể vượt qua được. Kế hoạch hoá để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu.

Càng ngày càng rõ rằng nếu điều kiện kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó được cải thiện nhưng các thành viên của nó lại được phép đẩy những người khác ra để họ được hưởng toàn bộ lợi thế dưới dạng tiền lương hay lợi nhuận cao hơn thì những người làm việc trong các ngành mà mức cầu suy giảm sẽ chẳng có chỗ mà đi và bất kì sự thay đổi nào cũng đều làm cho số người thất nghiệp gia tăng. Không nghi ngờ gì rằng số người thất nghiệp và sự thiếu tin tưởng vào tương lai trong mấy chục năm lại đây phần lớn là do những biện pháp bảo đảm như thế tạo ra.

Chỉ có những người từng trải qua mới thấy hết được tình cảnh tuyệt vọng của những người, trong cái xã hội đã trở thành xơ cứng như thế, bị đẩy ra bên ngoài những nghề nghiệp đã được bảo hộ. Chưa bao giờ một giai cấp lại bóc lột một giai cấp khác một cách dã man hơn là những người sản xuất đã thành đạt bóc lột những người sản xuất kém may mắn hơn. Đấy chính là kết quả của quá trình “điều tiết” cạnh tranh. Khó có thể tìm được khẩu hiệu gây ra nhiều tai hoạ hơn là lí tưởng về sự “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực nào đó, vì trong khi bảo đảm thu nhập cho một số người thì lại làm cho vị thế của những người khác càng bấp bênh thêm. Ở Anh và Mĩ sự ưu tiên, ưu đãi, đặc biệt là dưới hình thức “điều tiết” cạnh tranh, “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực đã ngày càng trở thành quan trọng. Nhưng bất cứ sự bảo đảm an toàn nào cho một nhóm cũng sẽ làm gia tăng sự mất an toàn của những nhóm khác. Nếu bạn bảo đảm cho một người nào đó một phần cố định của một cái bánh thì phần chia cho những người còn lại sẽ thay đổi còn nhiều hơn cả sự thay đổi của chính kích thước cái bánh. Và như vậy là yếu tố chủ yếu nhất của sự an toàn mà hệ thống cạnh tranh cung cấp, tức là sự đa dạng của cơ hội sẽ càng ngày càng giảm đi.

Những cố gắng nhằm bảo đảm sự an toàn bằng các biện pháp bảo hộ, được nhà nước ủng hộ, cùng với thời gian đã tạo ra trong xã hội những biến dạng nghiêm trọng - những biến dạng đủ loại mà Đức là nước dẫn đầu và những nước khác đã đi theo. Quá trình này còn được lí thuyết xã hội chủ nghĩa thúc đẩy hơn nữa: cố tình miệt thị tất cả các hoạt động có dính dáng với rủi ro kinh tế và lên án về mặt đạo đức đối với những khoản thu nhập xứng đáng để mạo hiểm nhưng chỉ một ít người thành công.

Chúng ta không thể trách các bạn trẻ khi họ thích được an toàn, được ăn lương hơn là mạo hiểm kinh doanh vì ngay từ khi còn bé họ đã được dạy rằng viên chức hưởng lương là nghề cao sang, bất vụ lợi và không ích kỉ như các doanh nhân. Thế hệ trẻ hiện nay đã lớn lên trong một thế giới mà cả trường học lẫn báo chí đều tìm cách thoá mạ tinh thần cạnh tranh thương mại, đều coi việc kiếm lời là vô luân, coi việc sử dụng 100 người lao động là bóc lột nhưng chỉ huy một số người tương đương lại là vinh dự. Những người già hơn có thể cho rằng nói thế là phóng đại, nhưng kinh nghiệm tiếp xúc hàng ngày với sinh viên của tôi cho thấy rằng việc tuyên truyền chống tư bản đã làm cho các giá trị của giới trẻ thay đổi và việc thay đổi giá trị đã diễn ra trước khi có những điều chỉnh trong các thiết chế. Vấn đề là liệu khi điều chỉnh các thiết chế cho phù hợp với những đòi hỏi mới, chúng ta có vô tình phá huỷ các giá trị mà chúng ta vẫn còn đánh giá cao hay không.

Như vậy là chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn căn bản giữa hai kiểu tổ chức xã hội không đội trời chung, thường được mô tả như là thương mại và quân sự. Trong trường hợp thứ nhất, cá nhân được quyền lựa chọn và tự chịu rủi ro; trường hợp thứ hai, cá nhân được giải thoát khỏi cả hai. Trong quân đội, công việc và người công nhân đều do cấp trên chỉ định, đây là hệ thống duy nhất mà cá nhân được bảo đảm hoàn toàn về mặt kinh tế. Nhưng sự bảo đảm này lại gắn liền với những hạn chế về quyền tự do và hệ thống cấp bậc, nghĩa là sự an toàn của trại lính.

Trong xã hội đã quen với tự do, chắc chẳng có mấy người sẵn sàng đánh đổi sự an toàn với cái giá như thế. Nhưng chính sách đang được thực thi hiện nay sẽ nhanh chóng tạo ra những điều kiện mà ước muốn an toàn sẽ mạnh hơn tình yêu đối với tự do.

Nếu chúng ta không có ý định tiêu diệt quyền tự do cá nhân thì cạnh tranh phải được vận hành mà không gặp phải cản ngại nào. Cần làm tất cả để ai cũng được bảo đảm một mức mức sống tối thiểu, nhưng đồng thời xin được nói rằng tất cả những lời kêu gọi về đặc quyền an toàn của những giai cấp nhất định phải bị bãi bỏ, cũng xin loại bỏ ngay những lời biện hộ cho phép những nhóm nhất định ngăn cản những người mới chia sẻ lợi nhuận nhằm bảo đảm cho họ một lối sống đặc thù nào đó.

Dĩ nhiên là một sự đảm bảo thoả đáng dành cho những trường hợp thiếu thốn quá mức phải là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách của chúng ta. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do của các “cây đa, cây đề” trong hàng ngũ trí thức. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do.

Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.

Hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn

Muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn chúng ta phải có đủ dũng khí để làm một cuộc khởi đầu mới. Chúng ta phải dọn sạch những cản ngại mà con người đã dựng lên trong thời gian gần đây và phải giải phóng năng lượng sáng tạo trong từng cá nhân. Chúng ta phải tạo điều kiện có lợi cho sự tiến bộ chứ không phải có lợi cho “lập kế hoạch cho sự tiến bộ”. Những kẻ kêu gào “kế hoạch hoá” nhiều hơn nữa không phải là những người dũng cảm, những kẻ tuyên truyền “Trật tự mới” cũng chẳng làm gì khác hơn là bắt chước Hitler, tức là tiếp tục những xu hướng từng diễn ra suốt 40 năm qua. Trên thực tế, những kẻ kêu gọi kế hoạch hoá to mồm nhất lại là những kẻ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất những tư tưởng đã phát động cuộc chiến tranh với biết bao những sự khủng khiếp mà nó gây ra cho chúng ta. Nguyên tắc dẫn đạo trong việc xây dựng một thế giới với những con người tự do phải là: Chính sách bảo đảm tự do cá nhân là chính sách duy nhất đúng.

(Hết)

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen