Nguyễn Thị Thu Hương, Thạc sĩ, Trường Đại học Tây Bắc
Nguồn: Tạp chí Triết học
Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) – nhà triết học Khai sáng, nhà tư tưởng chính trị, nhà xã hội học và sử học người Pháp. Ông là nhà tư tưởng có dòng dõi quý tộc, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1689 tại lâu đài La Brét ở Tây – Nam nước Pháp. Cha ông là Giắc đơ Sơcôngđa – một quý tộc bị sa sút và đã có thời gian làm đại úy vệ kỳ binh, sau đó lui về ở ẩn cho đến năm 1713 thì qua đời. Khi Montesquieu lên 7 tuổi thì mẹ ông mất. Montesquieu chịu ảnh hưởng nhiều của người chú ruột – Giăng đơ Sơcôngđa, người đã từng là Chủ tịch Nghị viện Boócđô.
Năm 1700, Montesquieu theo học tại một trường trung học do những người theo giáo phái Ôratoa tổ chức ở Guili gần Paris. Trong thời gian học trung học, ông đã thể hiện rõ lòng say mê văn chương, sử học và khoa học tự nhiên. Montesquieu đã viết một số tác phẩm mà nhiều độc giả thời đó rất ưa chuộng. Theo P.S.Taranốp – tác giả của công trình 106 nhà thông thái, sau khi kết thúc công việc học tập, Montesquieu đã quay trở lại lâu đài của người cha và tại đây, ông đã bắt đầu nghiên cứu luật học (1).
Năm 1714, Montesquieu vào làm việc tại Viện Boócđô và hai năm sau, ông trở thành nam tước De Montesquieu – Chủ tịch Nghị viện Boócđô. Năm 1716, Montesquieu trở thành thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Boócđô. Mặc dù nắm giữ cương vị là Chủ tịch Nghị viện và Chánh án Tòa án, song điều đó vẫn không lấn át được lòng say mê khoa học, văn chương và triết học ở Montesquieu. Mất khá nhiều thời gian cho những hoạt động chính trị, xã hội, song ông vẫn dành nhiều tâm huyết cho những công trình nghiên cứu về những nguyên nhân của tiếng vang, về công dụng của các tuyến thận, về trọng lực, về lợi ích của các môn khoa học (2). Tại Viện Hàn lâm Khoa học Boócđô, ông cũng đã trình bày một luận văn về đề tài tôn giáo của những người La Mã. Trong luận văn đó, ông đã chứng minh rằng, “tôn giáo là do các vua chúa và quý tộc La Mã bày đặt ra để làm chỗ dựa cho quyền lực của họ và tăng cường áp bức nhân dân” (3).
Khí chất của chàng thanh niên Montesquieu ham tìm tòi, suy nghĩ với lòng khát khao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực đồng thời lại trực tiếp tiếp xúc với thực tiễn chính trị – xã hội của thời đại ở một giai đoạn được coi là có sự bùng nổ của các cuộc đấu tranh quyết liệt chống phong kiến đã sớm nung nấu tinh thần của nhà triết học Khai sáng tương lai. Tư tưởng và tài năng của ông thực sự hòa làm một, kết tinh thành năng lực tư duy sáng tạo, khí phách kiên cường của nhà triết học Khai sáng. Vào năm 1721, Montesquieu đã cho ra đời tác phẩm đầu tay, tác phẩm được thừa nhận là đã gây chấn động dư luận không riêng gì ở Pháp, mà cả ở châu Âu – đó là tiểu thuyết bằng thư Những bức thư Ba Tư. Tác phẩm này ra mắt độc giả giữa lúc nước Pháp đang ngả nghiêng trong cơn khủng hoảng về kinh tế, chính trị của thời đó. Sự mục nát của chế độ quân chủ và mặt trái của nhà thờ đã được Montesquieu phơi bày trong Những bức thư Ba Tư qua sự nhìn nhận của hai người Ba Tư đến thăm nước Pháp sau khi đã đi qua một số nước châu Âu. Đây là một trong ba tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tạo của Montesquieu và là tác phẩm được công chúng Pháp nhiệt liệt hoan nghênh ngay khi mới ra đời. Mặc dù là tác phẩm văn chương, nhưng Những bức thư Ba Tư đã khiến nhiều người dân Pháp khi đó phải suy nghĩ nghiêm túc về nền chuyên chế, về giáo hội và giới giáo sĩ, về thân phận của con người trong sự cai trị độc đoán của chế độ độc tài, chuyên chế. Thông qua những bức thư của hai người Ba Tư đang lưu trú tại châu Âu gửi về quê hương, Montesquieu đã dựng lên một bức tranh về xã hội phương Đông và xã hội phương Tây. Thông qua hình tượng quan thái giám – kẻ tượng trưng cho những con người mà trong một xã hội chuyên chế, ngay bản thân họ cũng không thể tự bảo vệ được mình trước sự áp đặt của Nhà nước chuyên chế, Montesquieu đã cho thấy xã hội phương Đông khi đó là một xã hội mà ở đó , người ta đã “lấy từ thế giới này đem ném vào thế giới kia một người nào đó khéo chọn, người ấy cảm thấy rõ rệt tất cả cái phi lý mà chúng ta không cảm thấy, cái lạ lùng của tập quán, cái kỳ dị của luật pháp, cái đặc biệt của phong tục tình cảm, tín ngưỡng mà ai nấy đều thích nghi”(4). Và, khi mượn lời hai vị khách Ba Tư, Montesquieu đã cho công chúng Pháp thấy hình ảnh thật của Lui XIV. Đó là một ông vua giàu có, tham quyền, xa hoa, trác táng…, người đã đẩy nhân dân Pháp vào cảnh cùng khổ và hơn thế nữa, còn là “ông vua quyền uy nhất châu Âu. Ông không có mỏ vàng như vua Tây Ban Nha láng giềng, nhưng lại có nhiều của cải hơn, bởi vì của cải của ông được khai thác trong cái hư danh của thần dân, là một thứ kho báu vô tận, hơn cả mỏ vàng…”. Song, dưới con mắt của nhân dân Pháp và cũng là của Montesquieu, ông vua này chẳng qua chỉ là một nhà ảo thuật: “Ông ta áp đặt quyền lực vào ngay đầu óc thần dân. Ông bắt trăm họ suy nghĩ như ông muốn. Nếu trong ngân khố chỉ còn một triệu đồng ê quy, ông chỉ cần hạ lệnh rằng một đồng ăn hai đồng khi ông cần chi tới hai triệu êquy. Dân cũng cứ tin tưởng như vậy”(5).
Vấn đề tôn giáo cũng được Montesquieu đưa ra một cách không kém phần gay gắt. Nói tới nhà thờ Cơ Đốc giáo như một thiết chế xã hội với bộ mặt vô nhân đạo, đầy rẫy chuyện lụi bại, tàn bạo, đạo đức giả, thông qua hình tượng Lui XIV Montesquieu viết: “Ông ta làm cho mọi người tin rằng ba chỉ là một; rằng bánh người ta ăn không phải là bánh, hoặc rượu vang người ta uống chẳng phải là rượu vang và nghìn trò khác đại loại như thế” (6).
Mặc dù phê phán nhà thờ gay gắt, nhưng trên bình diện triết học, Montesquieu lại tỏ ra ôn hoà và thể hiện rõ ông là người theo thuyết tự nhiên thần luận. Ông phê phán thần học và nhà thờ, nhưng vẫn dành cho tôn giáo một vai trò nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Khác với các nhà triết học theo chủ nghĩa duy lý triệt để, khi phát triển tư tưởng về quy luật phổ biến mà các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội phải tuân theo, ông đã thừa nhận và khẳng định những tiền đề chung của lý luận về pháp lý tự nhiên mà theo đó, con người không thể dựa trên lý luận này để xây dựng một hệ thống vạn năng những quy luật xã hội.(7)
Sau khi tác phẩm Những bức thư Ba Tư ra đời, Montesquieu trở thành nhân vật nổi tiếng từ đấy và thường lui tới phòng khách của phu nhân De Lambert, gia nhập câu lạc bộ “Entresol” – một thứ hàn lâm viện tự do, để cùng nhau nghiên cứu các vấn đề khoa học về đạo đúc và chính trị” (8).
Năm 1726, Montesquieu thôi chức vụ Chánh án Tòa án Boócđô mà trước đấy, ông đã làm thế chân người chú của mình. Một năm sau, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Đến năm 1728, ông tạm biệt các phòng khách ở Paris và lên đường đi du lịch khắp nơi để hiểu phong tục, tập quán, luật pháp và thể chế của các nước châu Âu. Ông đã đi qua Đức, Áo, Hungari, Italia, Thụy Sĩ, Hà Lan. Ở những nơi này, ông đã được chứng kiến những tàn dư của chế độ phong kiến châu Âu, được tận mắt xem xét cuộc sống của dân chúng dưới chế độ cộng hoà. Ông lưu lại hai năm cuối ở Anh. Dưới chế độ quân chủ lập hiến, ông cảm thấy rất hài lòng và cho đó là một thể chế lý tưởng, trái ngược với nước Pháp quân chủ chuyên chế. “Tại Nghị viện Anh, người ta cho phép ông có mặt trong các cuộc tranh luận giữa Chính phủ và phe đối lập kéo dài tới 12 giờ. Các tư tưởng của ông về lý luận phân quyền đã bắt đầu chín muồi ở Anh” (9). Đây là thời gian đã làm cho Montesquieu thấy thực sự quý báu và những cảm nhận của ông về những gì đã diễn ra ở đây đã trở thành tiền đề cho sự hình thành tư tưởng của ông sau này.
Năm 1731, Montesquieu quay về Pháp và sống ở lâu đài Bret. Ở đây, ông tiếp tục hoạt động lý luận. Năm 1734, ông cho ra đời tác phẩm Nhận đinh về nguyên nhân thinh đạt và suy thoái của Rôma. Theo ông, “nguyên nhân làm cho La Mã cường thịnh là do tình yêu tự do, tình yêu tổ quốc và tình yêu lao động. Ông nhấn mạnh đến đường lối quân sự, chính trị khôn ngoan đối với các nước bên cạnh để dựa vào đấy củng cố chính quyền của mình. Còn nguyên nhân của sự suy thoái chính là sự rộng lớn của đế chế. Đó là tình trạng quân đội đồn trú quá xa trung ương, do đó cũng xa tinh thần cộng hòa và chỉ biết có vị chỉ huy của mình; là cuộc nội chiến liên miên để giành giật đất đai, của cải giữa các vương hầu...”(10).
Montesquieu cũng như nhiều nhà triết học khác của Pháp thế kỷ XVIII muốn khám phá những quy luật diễn biến của lịch sử, chống lại quan điểm cho rằng sự vận động của lịch sử là do sự sắp đặt của thần linh, do ý muốn chủ quan của một cá nhân, hay do ngẫu nhiên chi phối. Tuy nhiên, Montesquieu chưa thấy được đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy lịch sử, mà chỉ chú ý đến những yếu tố tinh thần. Đây là hạn chế của ông và cũng là của thời đại. Trong tác phẩm này, Montesquieu đã phê phán nền chính thể chuyên chế và tình trạng suy đồi ở những nước theo chính thể này. Theo ông, “thật ra các luật của Rôma đã trở nên bất lực, không thể cai trị nước cộng hòa được nữa; nhưng đó là cái mà người ta luôn luôn thấy là “những luật hay” đã làm cho một nước cộng hoà nhỏ trở thành nước lớn, và những luật hay” ấy trở thành gánh nặng khi nước cộng hòa đã bành trướng quá mức, vì những luật này chỉ có tác dụng làm thành một dân tộc lớn, chứ không có tác dụng cai trị dân tộc đó” (11) Cũng theo ông, những thiết chế quân sự và đời sống tinh thần của công dân trong các nhà nước đó khi đạt đến độ cực thịnh thì nội chiến nổ ra liên miên và điều đó khiến cho nền cộng hòa trở thành nhà nước chuyên chế độc quyền. Ông viết: “Trong khi tầng lớp bình dân ở Rôma được các vị hộ dân quan (tribun) nuông chiều, chỉ biết thừa nhận quyền lực của mình, thì cơ quan chấp chính (consulat) còn có thể tự bảo vệ một cách dễ dàng vì họ cứ theo chính sách đã ban hành mà làm việc. Thế là đám dân đen cứ luôn luôn bị đánh đập và trở thành yếu đuối. Nhung một khi dân chúng có thể vuốt râu tự hào về quyền lực của mình ở ngoài nước rồi thì mọi khôn ngoan của cơ quan chấp chính trong nước cũng trở nên vô ích và nền cộng hòa bị tiêu vong” (12).
Tháng 10 năm 1748, Montesquieu cho ra đời tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Do đã phải làm việc căng thẳng để nghiên cứu, soạn thảo cuốn sách này nên sức khỏe của ông bị suy sụp, nhất là thị lực. Ngay từ tác phẩm Những bức thư Ba Tư, chúng ta đã thấy thấp thoáng quan niệm của Montesquieu về sự khác biệt giữa chính thể quân chủ và chính thể chuyên chế, những nguyên tắc chi phối nhà nước, như phong tục, tập quán, khí hậu. . . Ở tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu không nghiên cứu luật pháp như một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của pháp luật. Ông muốn khám phá cái trật tự cái quy luật trong mớ hỗn độn các luật pháp ở tất cả các dân tộc và ở mọi thời đại. Đây là tác phẩm mang tính triết học sâu sắc, trong đó luật pháp được giải thích từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Bàn về tinh thần pháp luật thể hiện thái độ hết sức căm ghét của Montesquieu đối với chính thể chuyên chế và chủ trương thay thế nó bằng một hình thức nhà nước mới để cho các công dân Pháp lúc bấy giờ có lối thoát ra khỏi sự đàn áp, cưỡng bức của chế độ độc tài, chuyên chế. Thế nhưng, sau khi được công bố, tác phẩm này đã bị phê phán từ nhiều phía và do vậy, Montesquieu lại tiếp tục viết một tác phẩm luận chiến Bảo vệ tinh thần pháp ]uật (1750) để nói rõ lập trường của mình. Trong tác phẩm luận chiến này, ông đã thẳng thắn đập lại những ý kiến chỉ trích quan điểm của ông về “tinh thần pháp luật”, trả lời những điều bắt bẻ vụn vặt đối với “tinh thần pháp luật” và phê phán phương pháp luận của những kẻ đã phê phán ông để qua đó, đề cao “tinh thần pháp luật” mà ông chủ trương và dành cả cuộc đời để xây dựng.
Những nằm cuối đời, Montesquieu sống trong lâu đài của mình và tại đây, ông đã viết thêm một số tác phẩm khác, như Lyđimác (1751), Acxat và Ixmêni (1754). Khi đó, ông đã trở nên nổi tiếng và được kính trọng. Nhiều học giả khi đó đã cho ra đời các công trình nghiên cứu về tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu và nhiều học giả trong số đó đã gửi cho ông công trình nghiên cứu của họ, một số người còn muốn được trực tiếp gặp ông để trò chuyện.
Năm 1754, Montesquieu đến Paris. “Nguyên nhân của chuyến đi là việc bắt giam giáo sư La-Bômen, một trong những người đầu tiên công khai bảo vệ mãnh liệt Bàn về tinh thần pháp luật. Theo yêu cầu của Chính phủ Pháp, La – Bômen bị bắt ở Phổ, trao cho Pháp và bị giam vào Baxti với tư cách một người khả nghi về mặt chính trị. Nhận được tin này, Montesquieu vội vàng đến giúp đỡ. Ông hăng hái xin giùm cho vị giáo sư bất hạnh, sử dụng các mối quan hệ có thế lực của mình và giải thoát được ông ta” (13). Trong thời gian đó, ông đã phải chịu đựng sự hành hạ thân xác một cách khủng khiếp do bệnh tật ngày một nặng thêm, nhưng ông vẫn sống và hoạt động với một nghị lực hiếm có. Ông đã qua đời tại Paris ngày 10 tháng 2 năm 1755 và để lại nhiều nguyên cảo, trong đó có tập Những tư tưởng của tôi.
Với tất cả những cống hiến lý luận của mình, Montesquieu xứng đáng được tôn vinh là một trong những nhà tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế kỷXVIII, là nhà triết học Khai sáng Pháp nổi tiếng với tư tưởng đề cao “tinh thần pháp luật” luôn thể hiện ý chí và khát vọng xây dựng một xã hội mới mà ở đó, không còn áp bức, bất công, một xã hội có khả năng đem lại tự do cho mọi người, hoà bình cho nhân loại. Hơn hai thế kỷ qua, nhân loại luôn nhắc đến ông với tư cách đó và Bàn về tinh thần pháp luật của ông luôn được các nhà tư tưởng, các chính khách và giới nghiên cứu lý luận trên toàn thế giới sử dụng như một tài liệu tham khảo bổ ích, có giá trị gợi mở cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền.
_______
Chú thích:
(l) Xem: P.S.Taranốp. 106 nhà thông thái (Người dịch: Đỗ Minh Hợp). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.687.
(2) Xem: Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn. Văn học phương Tây thế kỷ XVIII. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr.153.
(3) Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn. Sđd., tr.153
(4) Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn. Sđd, tr.161.
(5) Montesquieu. Bàn về tinh thần pháp luật (Người dịch: Hoàng Thanh Đạm). Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2004, tr.296.
(6) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn. Sđd., tr. 167.
(7) Xem: Từ điển triết học (M.M.Kodentan chủ biên). Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr.373.
(8) Hoàng Thanh Đạm. Tiểu sử Montesquieu. Trong: Montesquieu. Sđd., tr.12.
(9) P.S.Taranốp. Sđd., tr.688-689.
(10) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu (chủ biên). Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XVIII. Nxb Ngoại văn, Hà Nội, 1991, tr 93 – 94.
(11) Montesquieu. Sdd., tr.311.
(12) Montesquieu. Sđd., tr.307 – 308
(13) P.S.Taranốp. Sdd., tr.690.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen