Samstag, 7. Juli 2012

Death By China-Chết bởi tay Tàu 12


Peter Navarro: Giáo sư kinh tế đại học UC Irvine

Greg Autry: Thương gia

(Người dịch: Vĩnh Nguyên)

 

(Tiếp theo)

 

Phần IV

Cẩm Nang Đi Tắt Đến Gulag Tàu

 

12. Hành Tinh Lớn Chết: Bạn Có Muốn Bị Nướng Trong Sự Khải Huyền Này Không? 

 

Môi trường ở Tàu ngày càng tệ hại. Nước bị ô nhiễm nên nước hiện đang là gánh nặng cho nền kinh tế, không khí ô nhiễm khiến sức khỏe của nhiều triệu người bị nguy hiểm, và nhiều vùng đất đang nhanh chóng trở thành sa mạc. 

—Foreign Affairs 

 

Thành phố Lâm Phần (Linfen) ở tỉnh Sơn Tây (Shanxi) bên Tàu bị phủ bởi một lớp bụi đen dày khiến Dickersian London* trông tinh khiết như một công viên thiên nhiên. Sơn Tây là trung tâm của vành đai than bên Tàu, các ngọn đồi ở Lâm Phần đầy những mỏ than vừa hợp pháp vừa phi pháp, và không khí thì đầy bụi than. Quần áo phơi ở đây sẽ biến thành màu đen trước khi khô. 

—Time 

 

* Chú thích của người dịch: Đối với nhà văn Charles Dickens (1812-1870), thành phố Luân Đôn thời đó dơ bẩn tệ hại. 

 

Người dân Tàu thường không ngu. Nhưng điều mà các cơ sở thương mại và các lãnh tụ đang làm, với sự đồng lõa ngầm của đa số quần chúng, là một trong những sự ngu xuẩn nhất, thiển cận nhất, và là một hành động tự diệt, tàn phá trái đất khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người. Hơi độc từ các hãng xưởng gây ngứa mắt, ngứa họng, khó thở. Phân người và những đợt sóng hóa chất độc hại tràn ngập các dòng sông chính như Hoàng Hà và Dương Tử. Kim loại nặng, thuốc trừ sâu, và rác điện tử ngấm đầy đất canh tác. Cuộc Vạn Lý Trường Chinh phá rừng và sa mạc hóa bắt đầu từ tỉnh cực tây Tân Cương (Xinjiang) cho đến cửa ngõ Bắc Kinh. Tất cả đã tạo thành một Mùa Xuân Thầm Lặng quanh năm. 

 

Dĩ nhiên các quan chức Đảng Cộng Sản có thói quen bào chữa rằng cái đế quốc đang lên của họ vẫn còn trong giai đoạn đầu của cuộc phát triển kinh tế. Họ nhấn mạnh rằng phải chấp nhận môi trường bị hủy hoại trước khi Tàu Đỏ chuyển thành Tàu Xanh. Một số đảng viên chủ trương “việc làm trước, môi trường sau” đã nhanh miệng bảo rằng khi nước Mỹ bắt đầu phát triển kỹ nghệ cách đây hơn thế kỷ, Pittsburgh đã bị bao phủ bởi một lớp bụi than và Cleveland đã là thành phố mà nếu người ta không đi trên nước được thì ít ra người ta cũng đốt được nước. 

 

Ừ, chúng tôi nghe rồi. Nhưng Tàu làm ơn nghe đây: Bất cứ những gì chúng tôi đã làm đối với môi trường hoặc Anh Quốc đã làm trong cuộc cách mạng kỹ nghệ hoặc Ba Tây hoặc Nam Dương hoặc Mễ Tây Cơ hoặc bất cứ một nước lớn nào khác đang làm, chẳng thấm vào đâu so với sự xúc phạm trầm trọng môi trường đang xảy ra ở Tàu ngày nay. Và bạn không cần phải là Al Gore mới hiểu sự thực khó chịu này: Hầu hết sự hủy hoại môi trường không những là không chữa được, mà hậu quả của hành động “chặt rồi đốt” của Tàu như bệnh ung thư đang lan ra khắp thế giới. 

 

Chính vì điều này nên tất cả chúng ta ngoài nước Tàu phải quan tâm đến việc chính phủ cận thị Tàu sẵn sàng đổi bừa bãi không khí, đất, và nước để chỉ lấy ba chục đồng bạc và thị phần lớn hơn. Không như chuyện Las Vegas ở lại Las Vegas, “chuyện ở Tàu không ở lại Tàu.” Hơi độc bốc lên từ hãng xưởng Tàu đang làm bẩn bầu không khí không những của Nhật Bản, Đài Loan, và Bán Đảo Triều Tiên mà còn của Los Angeles, San Francisco, và Denver. 

 

Cũng xin nhắc lại rằng chương 2, “Chết Bởi Chất Độc Tàu,” đã cho thấy các vi khuẩn, dioxins, kim loại nặng, và cặn bã của thuốc trừ sâu đã làm nguồn nước của Tàu ô nhiễm, rồi sau đó thấm vào táo, gà, cá, tỏi, mật ong, vitamins, các loại thực phẩm và thuốc men khác mà chúng ta nhập cảng từ Tàu. 

 

Thử nhìn vào tương lai con cháu của chúng ta xem sao. Khi không khí và nước bị ô nhiễm, đất bị sa mạc hóa, thời tiết thay đổi, và đô thị mọc tràn lan, thì đất canh tác ngày càng bị nhiễm độc nặng hơn và thu hẹp dần. Kết quả là các nhu yếu phẩm như lúa mì, gạo, và đậu nành ở Tàu ngày càng hiếm, và Tàu sẽ tranh giành các nguồn cung cấp trên thế giới khiến giá cả lên cao, từ chợ làng ở Phi Châu đến siêu thị ở Âu Châu đến các quầy của Walmart ở Mỹ. 

 

Vì những lý do này và những lý do khác nữa—gồm cả việc Tàu là kẻ đang hâm nóng địa cầu nhiều nhất—tất cả chúng ta trên thế giới cần hiểu rõ rằng “Tấn thảm kịch nhân loại” đang xảy ra ngay bây giờ, và chúng ta cần có hành động thích ứng đối với Tàu. 

 

 

Trời Xanh Của Chúng Ta Có Đổi Thành Nâu Không? 

 

Ở Mỹ chúng ta dẫn trẻ em thành phố về quê cho chúng xem bò và để biết sữa từ đâu ra. Ở Tàu nhiều người lớn sống ở các thành phố kỹ nghệ như Bắc Kinh, Trùng khánh, và Thành Đô cũng phải về quê để biết rằng ban ngày trời xanh và ban đêm có sao. 

 

Tôi biết điều này trong chuyến đi nhân đạo cùng với các bác sĩ Tàu thành phố ra vùng quê khám trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh và khám người lớn bị cao huyết áp. Mấy con chuột thành phố này rất ngạc nhiên khi thấy sao trên trời. 

 

Điều buồn cười là không khí bị ô nhiễm ngay cả ở vùng núi Vân Nam (Yunnan), nên thay vì thấy một khung cảnh tráng lệ với hai ngàn ngôi sao mà trẻ em Mỹ thường thấy trong các cuộc cắm trại ở Joshua Tree hay Mount Washington, chúng tôi đã chỉ thấy vài dúm nhấp nháy mà đêm nào cũng thấy được ở Los Angeles. 

—Greg Autry 

 

Bất cứ ai du lịch qua Tàu để xem Cấm Thành, Vạn Lý Trường Thành, hay nấm mồ vĩ đại chôn khát vọng dân chủ được biết với tên Công Trường Thiên An Môn, đều biết chính xác vấn nạn này: Bình thường bạn không thể thấy được hay nếm được không khí, hoặc không bị nghẹt thở, nhưng đó là chuyện hàng ngày của nhiều trăm triệu dân Tàu đang bị ho kinh niên. Phần lớn trong số họ thực sự hoàn toàn không biết rằng trời có thể xanh ngát ban ngày và ban đêm có cả tỉ ngôi sao nhấp nháy. 

 

Bầu trời vẩn đục không phải là mối lo duy nhất của người dân Tàu mà còn hậu quả của sự ô nhiễm. Theo ước tính sơ khởi của Ngân Hàng Thế giới, không khí ô nhiễm giết chết 700,000 sinh mạng Tàu mỗi năm. Điều này tương đương với việc cả thành phố San Francisco, nguyên tiểu bang Wyoming hay Delaware, cả tỉnh Brunswick của Canada, hay toàn thể dân chúng của nước Bahrain bị chết nghẹt mỗi năm. 

 

Còn chuyện này nữa: Theo đúng tinh thần độc tài Orwellian, khi kết quả khảo sát của Ngân Hàng Thế Giới được tiết lộ, những người kiểm duyệt ở Bắc Kinh đòi giảm con số 700,000 tử thi này xuống trong ấn bản chính thức; những tay thợ đục của Đảng Cộng Sản đã không bảo rằng con số này sai, mà chỉ lo thực tế thê thảm này có thể dẫn đến động loạn xã hội. Đúng vậy—có lẽ đã đến lúc thật. 

 

Và đây là một thống kê khác cũng không thuộc loại bí mật quốc gia: Cái quốc gia đông dân nhất thế giới này có hơn 100 thành phố với dân số trên một triệu; và gần như toàn thể những đám đông con người này bị bao phủ bởi một bức màn bụi và hơi độc lưu huỳnh (sulfur dioxide) rất tai hại cho phổi. Hơn nữa, trong số 20 thành phố có không khí ô nhiễm nhất thế giới mà nhiều người phải đeo mặt nạ như Mexico City và Jakarta, thì 16 thành phố là của Tàu. 

 

Tại sao không khí ở Tàu lại dơ bẩn đến như vậy? Giản dị là vì 75% năng lượng dùng ở Tàu là từ than—với rất ít nỗ lực cải thiện để dùng than một cách sạch hơn. Ở khắp nơi bên Tàu rất ít kỹ thuật giảm ô nhiễm được sử dụng trong quá trình chuyên chở than, đốt than, và vất tro, và lại càng không ai quan tâm đến tác dụng độc hại của than đối với đời sống con người và súc vật. (Một người trong nhóm chúng tôi đã chứng kiến tận mắt hết tấn than này đến tấn than khác bị đổ thẳng xuống sông Dương Tử trong một công trình xây dựng nhà kho xập xệ bên sông—mà sau này phải sửa lại và cũng vẫn vô trách nhiệm như trước.) 

 

Không những than được Tàu chọn để tạo ra điện, mà ở nhiều nhà miền quê than thô vẫn còn được dùng để nấu ăn và sưởi ấm—với rất ít hoặc không có chỗ thoát hơi. Và vì than hiện diện khắp nơi trong nền kinh tế Tàu nên 90% hơi độc lưu huỳnh ở Tàu là từ than và là thành phần chính trong lớp không khí mù mờ. Sự lệ thuộc nặng nề vào than cũng là lý do khiến không khí ở Tàu chứa nhiều bụi nguy hiểm chết người, có thể ngấm sâu hoặc làm rách màng phổi. 

 

Còn tại sao chúng ta lại phải quan tâm đến việc người Tàu tự giết họ, thì xin nhớ rằng: Cứ mỗi 100 tấn chất hơi độc hưu huỳnh hay bụi độc hay chất thủy ngân mà các nhà máy Tàu phun lên bầu trời, nhiều ngàn cân những chất độc này từ từ sẽ bay vào mắt, cổ họng, phổi, và hệ thống thần kinh ở Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, và rồi cả Bắc Mỹ. Bạn sẽ không vô lý nếu một mai thức giấc ở Carson, California hoặc Seattle, Washington bạn phải thốt lên rằng, “Sáng nay cái mùi Tàu ghê quá!” 

 

 

Nước, Nước Khắp Nơi Nhưng Không Có Một Giọt Để Uống 

 

Ba giòng sông chính của nước Mỹ—Colorado, Mississippi, và Ohio—bị ô nhiễm đến nỗi người ta sẽ gặp nguy hiểm nếu bơi hoặc ăn cá bắt được ở đó. Có những vùng trên sông Ohio ở Pittsburg nước đặc quánh, đen, và bợn nhợn, có vẻ như người ta có thể bước lên đó được. 

—FactsandDetails.com 

 

Bạn không cần là hội viên chính thức có thẻ đàng hoàng của Sierra Club mới biết câu trích dẫn ở trên là giả tạo. Nhưng nếu bạn thay chữ “Mỹ” bằng “Tàu,” đổi “Colorado, Mississippi, và Ohio” thành “Dương Tử, Ngọc Hà, và Hoàng Hà,” và thay “Pittsburg” bằng Quảng Châu,” bức tranh môi trường được vẽ bởi FactsandDetails.com sẽ là rất thật. 

 

Bạn cũng không cần phải là hội viên của Hội Súng Quốc Gia để biết rằng nếu sông suối ở Mỹ mà bị nhơ nhớp chỉ cần bằng một phần mười ở Tàu là dân chúng ở xứ US of A truyền thống này sẽ vũ trang nổi dậy liền. Ở bên Tàu hiếm có hành động nào để bảo vệ nước, nguồn lợi thiên nhiên quý báu nhất. 

 

Chúng tôi đã bàng hoàng khi thấy rằng Tàu có 20% dân số thế giới nhưng chỉ có 7% nước ngọt; và tuyệt đại đa số các nơi ở Tàu—kể cả 100 thành phố—bị hạn hán trầm trọng. Dù nước khan hiếm như vậy, doanh nhân và những bộ óc của chính phủ Tàu lại để 70% các sông, suối, hồ và 90% nguồn nước ngầm bị ô nhiễm trầm trọng. Hơn nữa, ở các thành trì kỹ nghệ như Sơn Tây, hầu hết nước sông độc đến nỗi đụng phải là đã có thể bị bệnh. Jeffrey Hayes đã mô tả ngắn gọn về một phim có khung cảnh sông hồ bên Tàu: 

 

Nước trước kia đầy cá và mời gọi người xuống bơi nay có một lớp màng bọt trên mặt và rất hôi. Các con kênh thường có đầy rác nổi trên mặt, đặc biệt rác hai bên bờ dày đặc. Hầu hết là những vật nhựa đã phai màu. 

 

Sự thiệt hại này là do cơn lũ nhiều tỉ tấn rác kỹ nghệ, phân hóa học, cặn bã từ người và thú liên tục được thải ra từ các nhà máy hóa chất, xưởng sản xuất thuốc, nhà máy phân bón, xưởng thuộc da, nhà máy giấy, và trại heo. Vì những khối lượng chất thải không được xử lý tràn lan này mà một tỉ người dân Tàu hàng ngày đang phải uống nước nhiễm độc, và ít nhất 700 triệu trong số này phải chịu đựng nước uống được “tăng vị” bằng chất thải từ người hoặc súc vật. 

 

Trong khi đó, sông Liêu (Liao) là sông lớn nhất miền nam Mãn Châu (Manchuria) và cũng chứng thực cho câu châm ngôn rằng Tàu càng tiến nhanh thì môi trường càng bị hủy hoại. Vì dù dọc bờ sông có những cơ sở xử lý nước mới được thành lập, nhưng công suất quá thấp so với mức độ ô nhiễm đang tăng mạnh. 

 

Vậy tại sao nước lại bị ô nhiễm nặng nề như vậy? Đây là một kịch bản ma giáo mà tiêu biểu là trường hợp của công ty Fuan Textiles, một trong những “vua áo thung” ở tỉnh Quảng Đông. Báo Washington Post tường thuật rằng xưởng của Fuan bị đóng cửa vì đổ xuống sông 20,000 tấn chất thải khiến nước sông bị nhuộm đỏ. Nhưng khi tình trạng thất nghiệp lên cao, các viên chức nhà nước âm thầm khuyến khích Fuan đổi tên xưởng và dời đến địa điểm khác. 

 

Nước độc hại hãi hùng của Tàu đã thêm một thuật ngữ mới vào nhóm chữ mô tả tai họa môi trường—“làng ung thư.” Dọc theo sông Hoài (Huai) không thôi đã có khoảng 100 làng ung thư; và những người dân quê mùa thiếu thốn ở đây bị những loại ung thư như thực quản, ruột, và dạ dày. Số người bị ung thư ở đây nhiều tương đương với số lính Mỹ tử trận trong cuộc đổ bộ bờ biển Normandy. 

 

Và thử nhìn lại xem, chỉ mới đây dưới thời Mao, người dân Tàu vẫn còn gắn bó với nước. Mao Chủ Tịch đã một thời thích bơi qua sông Dương Tử. Ngày nay nếu Mao đầu thai lại thì sẽ chết dưới nước vì nhiễm độc. Dù có thể ra sông dễ dàng nhưng dân ở các thành phố như Trùng Khánh hay Thành Đô lại trả tiền để vào câu giải trí ở những hồ cá tư nhân. Cũng vậy, nhiều triệu dân Thượng Hải dù sống sát biển ngay cửa sông lớn nhưng gần như chẳng ai dám liều mạng xuống tắm hay bơi. 

 

Ta thử xem trường hợp Đại Hồ (Lake Tai) của Tàu, tương đương với Hồ Placid ở Adirondacks ở Mỹ. Đại Hồ là hồ lớn thứ ba của Tàu với hơn 90 đảo, và nổi tiếng với những dãy đá vôi. Nhưng ngày nay hồ này lại nổi tiếng với màu xanh lục của rong rêu tràn lan, tiêu thụ hết khí ô-xy, giết chết cá, và nước thì hoàn toàn không thể uống được. 

 

Môi trường bị hủy hoại mà người tranh đấu bảo vệ lại bị công an tra tấn thì sẽ đi về đâu? Phải kể đến Wu Lihong, sau năm ngày bị đánh đập đã phải “thú tội” và bị ném vào ngục tối—mà ở Tàu thì ngục thực sự tối. 

 

Tai Họa Vô Hình Của Tàu—Đất Nhiễm Độc 

 

Đất canh tác của Tàu nuôi sống 22% dân số thế giới, đang phải đối diện sự ô nhiễm và xuống cấp thê thảm, đó là lời cảnh báo của Zhou Xiansheng, giám đốc Sở Bảo Vệ Môi Trường Quốc Gia (SEPA)…Phẩm chất của đất bị kém đi là hậu quả rất đáng lo ngại của sự phát triển kinh tế quá nhanh. Các kim loại nặng đang tích tụ trong đất, làm mặt đất chai cứng và giảm sự màu mỡ. Cặn bã của phân hóa học và thuốc trừ sâu thấm vào nông phẩm, nhiễm độc vào người và vào gia súc. Hiện nay khoảng 10 triệu mẫu đất trồng trọt, tức 10% tổng số đất trồng trọt của quốc gia, đã bị ô nhiễm. —Worldwatch Institure 

 

Môi Trường Thời Báo của Tàu (China Environment Times) gọi đất nhiễm độc “sự ô nhiễm vô hình” là rất đúng, vì không như nước hay không khí, sự ô nhiễm trong đất không thể thấy bằng mắt thường được. Và ngày nay, ở bất cứ đâu trên nước Tàu, người ta có sự chọn lựa chất độc từ đất. 

 

Thí dụ, trong khu sản xuất đồ điện tử ở vùng châu thổ sông Ngọc Hà, vấn nạn lớn nhất là các kim loại nặng như thủy ngân, chì, và thiếc. Còn ở vựa lúa gạo phía bắc nước Tàu thì là cơn lụt thuốc trừ sâu. Các vùng trồng rau đầy những chất nitrates gây ung thư vì lạm dụng phân bón. Và ở các nơi trồng trái cây khắp nước Tàu, việc dùng quá nhiều hợp chất copper sulfate để trừ sâu và diệt vi tkhuẩn khiến trái cây bị nhiễm độc nặng nề. Mặc dù DDT bị cấm nhưng thực tế vẫn được dùng thường xuyên và hậu quả lâu dài có thể thấy được với sự vắng bóng sâu bọ và chim ở toàn vùng quê phía Tây nước Tàu. 

 

Hậu quả tai hại của sự ô nhiễm trầm trọng là do cái nhìn cận thị và tâm lý điên khùng “càng nhiều càng tốt” của nhiều triệu nông dân Tàu. Dù là phân bón hay thuốc trừ sâu cho nông phẩm hoặc thuốc trụ sinh cho gia súc (hoặc chì trong nước sơn và đồ chơi), không có một sự chừng mực nào ở Tàu mà chỉ có cái tâm lý “đổ bừa vào” và “sơn bừa lên” khiến mọi thứ đều an toàn giống như những mảnh vụn plutonium trong những khoanh khoai tây chiên. 

 

Ta hãy xem bệnh dịch lạm dụng phân bón ở Tàu: Nông dân Tàu tiêu thụ hơn 30 triệu tấn phân nitrogen mỗi năm và thường dùng hai đến ba lần nhiều hơn số lượng cần thiết. Theo chuyên gia về đất Fusuo Zhang của Đại Học Nông Nghiệp Tàu, việc sử dụng quá độ phân bón khiến pH của đất sụt giảm mạnh và kết quả là đất bị a-xít hóa, sản lượng nông phẩm bị giảm từ 30% đến 50% ở một số vùng. 

 

Sự thèm khát thuốc trừ sâu cũng tương tự—cùng với cách dùng không đúng—đã làm hơn 5% đất Tàu bị nhiễm độc. Tính chung thì Tàu bị mất 10% đất canh tác do đủ các loại thuốc độc. Để dễ hình dung, đó là 25 triệu mẫu đất tiêu tùng, và tương đương với việc xóa sổ 80% đất canh tác của tiểu bang Iowa. 

 

Vẫn chưa hết chuyện. Vì Tàu còn sẵn sàng—thực ra là rất muốn—trở thành bãi rác cho một trong những sản phẩm độc hại nhất của thời đại văn minh: “rác điện tử.” 

 

Rác điện tử gồm máy vi tính hỏng, điện thoại di động lỗi thời, và nhiều thứ dụng cụ điện tử khác; và đó thực sự là một hỗn hợp kim loại nặng chưa từng thấy. Theo ScienceDaily thì “Có tới 50 triệu tấn rác điện tử được thế giới thải ra mỗi năm—đủ để chất đầy một hàng xe tải dài nửa vòng trái đất;” và dĩ nhiên, xe tải rác của Tàu đang thu gom 70% số lượng rác điện tử này. 

 

Đây không những là Tây đổ sang Đông, mà còn là thế kỷ 15 gặp gỡ thế kỷ 21. Trong cái thế giới rác điện tử dơ bẩn này, những người dân quê Tàu ngồi xổm trước lò than hơ nóng bảng điện tử để chì chảy ra mà chỉ có những chiếc quạt nhỏ để thổi hơi độc trong khi họ nhặt bằng tay không những linh kiện nhỏ như con chíp, capacitors, và diodes để bán lại cho các xưởng sản xuất đồ điện gia dụng. 

 

Đây là phương pháp tái chế cực kỳ sơ khai giữa vô vàn máy móc của thời hiện đại. Và nó cho nền sản xuất của Tàu thêm một lợi thế cạnh tranh đối với các nước như Ba Tây hay Mễ Tây Cơ hay Pháp hay Mỹ, vì những nước này đối xử với dân của họ như những con người thay vì như những con-vật-người để tế nữ thần giá rẻ. 

 

Đây là điều ghê tởm bởi vì bụi độc từ cách tái chế này sẽ bay nhiều dặm đến các vùng quê của Tàu. Thực tế là trong và chung quanh những khu ổ chuột tái chế như Quý Tự (Guiyu) tỉnh Quảng Đông, mức đồng, chì, thiếc, và nhiều thứ kim loại nặng khác cao gấp 100, 200, và 300 lần mức an toàn. 

 

Vậy thì, tổng cộng cái giá Tàu phải trả cho các nguồn ô nhiễm đất—từ hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu đến rác điện tử—là bao nhiêu? Theo chính các khoa học gia của Tàu, cái giá là 10 triệu tấn ngũ cốc bị mất mỗi năm—con số này tương đương một phần sáu số lúa mì của Mỹ, nửa số bắp của Mễ Tây Cơ, và gần như toàn thể số gạo của Nhật. Nếu nhìn một cách khác chúng ta sẽ đau đớn nhận ra rằng khi đi mua thực phẩm, 10 triệu tấn ngũ cốc của các nước khác sẽ bị Tàu vơ vét để bù đắp vào số lượng Tàu bị mất vì không quản lý môi trường. 

 

 

Vua Hâm Nóng Địa Cầu 

 

Thế giới chưa bao giờ phải đối diện với nguy cơ ghê gớm về sự thiếu hụt lương thực có thể thấy trước được vì những tảng băng trên các ngọn núi ở Á Châu đang tan dần. Tàu và Ấn Độ dẫn đầu thế giới về sản xuất lúa mì và gạo—thực phẩm chủ yếu của nhân loại. Hai quốc gia này chiếm hơn nửa tổng sản lượng của thế giới. Lượng lúa mì do Tàu sản xuất cao gấp đôi Mỹ và Mỹ đứng thứ ba sau Ấn Độ. 

—Friends of the Earth 

 

Đến đây thì bạn đã có một hình ảnh chính xác về sự ô nhiễm—và việc Tàu hoàn toàn coi thường môi trường ảnh hưởng đến tất cả chúng ta như thế nào. Nhưng vẫn còn một điều nữa cần nói đến. Đó là việc các hãng xưởng Tàu đang là nguyên nhân chính của sự thay đổi khí hậu. 

 

Trước khi chúng ta đi sâu vào chuyện này, chúng ta biết rằng nhiều người Mỹ không tin việc khí hậu thay đổi là có thật và không có gì phải lo. Đối với những vị này chúng tôi chỉ muốn nói rằng: 

 

Nếu việc khí hậu thay đổi là thật và chúng ta không có hành động nào để ngăn ngừa, cái giá phải trả sẽ cao hơn nhiều so với phí tổn ngăn ngừa. Nhìn từ giác độ này hành động ngăn ngừa là một chương trình bảo hiểm cho những rủi ro mà chúng ta chưa thể nào biết hết được. 

 

Vậy thì trong bối cảnh này, chúng ta cũng thấy thêm rằng từ năm 2006—nhiều năm trước khi các chuyên gia ước tính—Tàu đã qua mặt Mỹ để trở thành quốc gia thải nhiều khí hiệu ứng nhà kính nhất. Thêm nữa, trong vài thập niên tới nếu không có hành động gì, sự tăng trưởng dựa trên than của Tàu, cùng với thêm vài trăm triệu chiếc xe hơi gia nhập dòng xe cộ của Tàu, hiệu ứng nhà kính sẽ tăng theo cấp số nhân, lớn hơn nhiều so với tất cả các quốc gia khác cộng lại, kể cả Mỹ. 

 

Dĩ nhiên, sẽ có những người Tàu biện hộ rằng Tàu có “quyền” gây ô nhiễm dựa theo tỉ lệ dân số đông đảo của Tàu. Nhưng điều này dẫn đến câu hỏi là ai có trách nhiệm về việc dân số Tàu quá đông? Chắc chắn Tàu không thể nào đổ lỗi cho ai được. 

 

Điều mỉa mai là Tàu sẽ là một trong những nạn nhân chịu thiệt hại nhiều nhất của sự thay đổi khí hậu. Lý do là vì hai nguồn nước vĩ đại chảy qua Tàu—Hoàng Hà và Dương Tử—hầu hết bắt nguồn từ khối tuyết và băng của cao nguyên Tây Tạng-Thanh Hải (Tibetian-Qinghai.) Những tảng băng này đang tan với tốc độ 7% mỗi năm, và nếu Địa Cầu thực sự đang nóng dần, những tảng băng này sẽ tan nhanh hơn nhiều. Vậy có nghĩa rằng Tàu sẽ bị vài thập niên ngập lụt và sau đó sẽ bị hạn hán và thiếu lương thực trầm trọng vì hai con sông lớn nhất bị cạn dòng. 

 

Trong khi đó, những tảng băng ở hai cực địa cầu tiếp tục tan và mực nước biển dâng cao, các thành phố ven biển như Thượng Hải và Thiên Tân (Tianjin) có nguy cơ bị chìm dưới nước. Xác suất rất cao này được công nhận bởi lời cảnh báo khẩn thiết từ Tiến Sĩ Peter Walker của Hội Hồng Thập Tự: “Trong vòng 80 năm, 30 triệu dân Tàu sẽ bị chìm dưới nước. Chúng ta biết điều này sẽ xảy ra, nên chúng ta phải tìm cách bảo vệ khu vực này.” 

 

Này Tàu, bắt đầu tự bảo vệ mình đi chứ, để láng giềng Ấn Độ, và tất cả chúng tôi nữa cũng được nhờ—thay vì đổ lỗi cho chúng tôi rồi đòi Mỹ và Âu Châu phải giải quyết. 

 

 

Tại Sao Tàu Tự Sát—Và Giết Luôn Cả Hành Tinh Này 

 

Là một thành phố kỹ nghệ—Tàu không có loại thành phố nào khác—Điền Doanh (Tianying) chiếm hơn nửa tổng số chì do Tàu sản xuất. Vì kỹ thuật lạc hậu và quản lý tồi, nhiều chất chì độc hại này thấm vào đất và nước và rồi vào máu của trẻ em. 

—Time 

 

Để chấm dứt phần này, chúng ta phải trả lời câu hỏi nổi bật là: Tại sao chế độ toàn trị của Tàu có thể kiểm soát bất cứ điều gì trên đất Tàu, lại để Tàu trở thành bãi rác của thế giới? 

 

Trả lời câu hỏi này là việc cực kỳ quan trọng, đối với cả người dân Tàu. Bởi vì chắc chắn rằng việc Tàu đang tàn phá thiên nhiên sẽ khiến người dân Tàu phải chịu đựng khốn khổ nhiều hơn bất cứ điều gì trong cuộc Tàn Sát Nam Kinh bởi quân đội thiên hoàng Nhật Bản vào những năm 1930 hoặc trong suốt cuộc “chiến tranh nha phiến” bởi đế quốc Anh trong thế kỷ 19. Thực tế là những “sự sỉ nhục bởi người ngoại quốc” mà Đảng Cộng Sản Tàu thường hay nhắc với thế giới, dù lúc đó tàn bạo, nhưng nay có vẻ như nhỏ bé trước sự sỉ nhục môi trường mà Đảng Cộng Sản Tàu đang gây ra cho chính dân mình.  

Vậy thì tại sao cái thảm họa chung do một nhóm người gây ra này lại xảy ra? Dĩ nhiên một phần trách nhiệm là ở các công ty ngoại quốc như BASF, DuPont, GE, Intel, và Volkswagen với kế hoạch xuất cảng sự ô nhiễm sang Tàu. Ngoài những khoản hấp dẫn như trợ cấp bất hợp pháp mà chính phủ Tàu dùng để lôi kéo việc làm, các xếp lớn của những công ty này cũng thích luật lệ lỏng lẻo của “Sở Tàn Phá Môi Trường” của Tàu hơn là Sở Bảo Vệ Môi Trường của Mỹ, Bộ Môi Trường của Nhật, hay Sở Môi Trường của Âu Châu. 

 

Nhưng sau cùng thì Đảng Cộng Sản Tàu phải chịu trách nhiệm về “Cái Chết Của Hành Tinh Lớn” này, không những vì chấp nhận sự sỉ nhục môi trường—mà còn vì chủ mưu và chi tiền cho việc này. Việc Tàu sẵn sàng tàn phá toàn thể hệ sinh thái gồm không khí, nước, và đất là do ba yếu tố đồng hành với sự thiếu vắng hoàn toàn viễn kiến tương lai. 

 

Yếu tố đầu là chính sách bất thành văn của Đảng Cộng Sản, “phát triển và gây ô nhiễm trước, bảo vệ sau.” Từ cái nhìn thiển cận này, hy sinh một phần môi trường để cướp vài triệu việc làm từ Tây Phương có lợi hơn là phải chi tiền để bảo vệ môi trường, ngoài ra còn tạo được ổn định chính trị trong nước Tàu. 

 

Yếu tố thứ nhì là quá nhiều công ty ở Tàu thuộc nhà nước, con sói không những bảo vệ môi trường chuồng gà, mà còn điều hành doanh nghiệp gà và trứng. Những công ty quốc doanh Tàu là những kẻ gây ô nhiễm tệ hại nhất, đổ bừa bãi chất thải độc hại vào sông vào đất Tàu. 

 

Yếu tố thứ ba khiến Tàu hoàn toàn không coi trọng môi trường là vì Khổng Tử quan niệm con người phải chế ngự thiên nhiên chứ không phải sống hòa đồng với thiên nhiên. Một trong những thí dụ tai hại cho cái ảo tưởng Tàu này là ở thời Mao Trạch Đông trong bước nhảy lùi vĩ đại vào những năm 1960. Lúc này lãnh tụ độc tài Tàu phát động chiến dịch “Tiêu diệt chim sẻ” trong kế hoạch diệt chuột, muỗi, vv. trong đó chim sẻ là kẻ thù số một. 

 

Trong cái tội ác ngu xuẩn chống lại thiên nhiên này, Mao động viên nhiều triệu nông dân ca hát, la hét, gõ nồi ầm ĩ để xua đuổi chim sẻ ra khỏi các cánh đồng lúa. Mục đích của Mao là để tránh chim sẻ ăn thóc—nhưng Chủ Tịch lại không biết rằng dù chim ăn thóc nhưng chúng còn ăn sâu bọ nhiều hơn. 

 

Nên sau khi Tàu tiêu diệt được phần lớn chim sẻ, những cánh đồng lúa phì nhiêu của Tàu bị tràn ngập bởi dịch châu chấu. Kết quả là vài chục triệu dân Tàu bị chết đói, nhưng bi kịch vẫn còn dài vì Đảng Cộng Sản vẫn chưa học được rằng bảo vệ và sống hài hòa với môi trường là điều thông minh. 

 

---------------------- 

 

Kỳ tới: Chết Bởi Cuộc Tàn Sát Của Tàu: Khi Mao Gặp Orwell Và Đặng Tiểu Bình Ở Thiên An Môn


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen